Kế hoạch của quân Đồng Minh Bãi Utah

Quyết định vượt biển để thực hiện một cuộc đổ bộ vào châu Âu trong năm tiếp theo đã được nêu ra tại Hội nghị Trident tại Washington, tháng 5 năm 1943.[8] Phe Đồng Minh ban đầu dự định sẽ độ bộ vào ngày 1 tháng 5 năm 1944, và bản thảo về chiến dịch đã được chấp thuận tại Hội nghị Quebec vào tháng 8 năm 1943.[9][10] Đại tướng Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh (SHAEF)[10] và Thống chế Bernard Montgomery được bộ nhiệm làm chỉ huy Tập đoàn quân số 21, bao gồm toàn bộ lực lượng mặt đất sẽ tham gia vào chiến dịch xâm lược.[11]

Ngày 31 tháng 12 năm 1943, Eisenhower và Montgomery xem qua bản thảo đầu tiên của chiến dịch, sẽ bao gồm ba sư đoàn bộ binh và 2/3 lực lượng của một sư đoàn không vận để thực hiện cuộc đổ bộ.[12] Hai vị tướng lập tức đề nghị mở rộng quy mô lực lượng lên năm sư đoàn bộ binh và ba sư đoàn không vận, để có thể tiến hành chiến dịch trên mặt trận rộng hơn.[13] Quy mô mặt trận được tăng lên từ 40 km lên 80 km, sẽ giúp việc vận chuyển binh lính, trang thiết bị và hàng hóa lên bờ nhanh hơn, và sẽ khiến quân Đức khó triển khai phòng thủ và đẩy nhanh tiến độ chiếm đóng cảng ở Cherboug.[14] Eisenhower và Trung tướng Omar Bradley đã chọn bãi Utah cho Quân đoàn VII. Thiếu tướng Joseph L. Collins, người từng tham gia vào các chiến dịch đổ bộ ở Mặt trận Thái Bình Dương, sẽ thay thế Thiếu tướng Roscoe Woodruff làm chỉ huy Quân đoàn VII.[15]

Khu vực bờ biển của Normandie được chia thành 17 phân khu, với định danh theo bảng chữ cái - từ Able (A) ở phía tây Omaha tới Roger (R) ở sườn phía đông của Sword. Utah ban đầu được định danh là "Yoke" và Omaha là "X-ray" theo bảng chữ cái phiên âm. Tên của hai bãi biển sau được đổi lại thành "Utah" và "Omaha" theo gợi ý của tướng Bradley. Thêm tám khu vực đổ bộ nữa được thêm vào khi Bộ chỉ huy mở rộng kế hoạch đổ bộ, bao gồm cả Utah. Các phân khu sẽ được chia thành các bãi biển được xác định bằng các màu Xanh lá cây (Green), Đỏ (Red) và Trắng (White).[16]

Utah, cực tây của năm bãi đổ bộ, nằm trên Bán đảo Cotentin, phía tây cửa sông Douve và sông Vire.[17] Địa hình giữa hai bãi Utah và Omaha lân cận là đầm lầy và rất khó để băng qua, đồng nghĩa với việc quân đổ bộ vào Utah sẽ bị dễ dàng bị cô lập. Người Đức đã làm ngập các khu vực đồng ruộng ở phía sau Utah, khiến đoạn đường di chuyển vào trong đất liền bị thu hẹp lại còn một vài con đường đắp cao và hẹp. Để đảm bảo khu vực trong đất liền cho quân đổ bộ ở bãi biển, nhanh chóng phong tỏa Bán đảo Cotentin và ngăn chặn quân Đức củng cố lực lượng tại cảng Cherbourg, hai sư đoàn không vận đã được chỉ định đổ bộ vào đất Pháp trong những giờ đầu của chiến dịch.[18]

Việc mở rộng quy mô chiến dịch đồng nghĩa với việc phải cung cấp thêm tàu ​​đổ bộ và máy bay chở quân, khiến cuộc xâm lược bị trì hoãn đến tháng 6.[19] Việc sản xuất tàu đổ bộ được đẩy mạnh vào cuối năm 1943 và tiếp tục vào đầu năm 1944, và phải chuyển các tàu đổ bộ có sẵn từ các mặt trận khác về Anh.[20] Hơn 600 máy bay vận tải Douglas C-47 Skytrain và phi hành đoàn đã bay đến Anh vào đầu năm 1944 từ Căn cứ Không lực Lục quân Baer, Indiana, nâng số lượng máy bay chở quân hiện có lên hơn một nghìn chiếc.[21]

Kế hoạch tấn công

Cuộc đổ bộ bằng đường biển vào Utah sẽ được thực hiện sau đợt đổ bộ bằng đường không tại Bán đảo Cotentin vào lúc nửa đêm.[22] Cuộc pháo kích kéo dài 40 phút sẽ được bắt đầu lúc 05:50[23] và sau đó là các đợt ném bom của máy bay Đồng minh, dự tính diễn ra từ 06:09 tới 06:27.[24]

Đổ bộ bằng đường biển được chia làm bốn đợt, bắt đầu lúc 06:30. Đợt đầu tiên bao gồm 20 xuồng đổ bộ LCVP (Landing Craft, Vehicle, Personnel) chở bốn đại đội của Trung đoàn Bộ binh số 8. 10 xuồng ở mạn phải sẽ đổ bộ vào khu vực Tare Green, đối diện với cứ điểm Les Dunes de Varreville, 10 xuồng ở mạn trái sẽ đổ bộ vào khu Uncle Red, cách đó khoảng 910 m về phía nam. Tám xuồng LCT (Landing Craft Tanks), mỗi xuồng chở theo 4 xe tăng Sherman "Duplex Drive" - Sherman DD thuộc Tiểu đoàn Thiết giáp số 70, sẽ đổ bộ trước lực lượng bộ binh vài phút.[25]

Đợt thứ hai, bắt đầu lúc 06:35, bao gồm 32 xuồng LCVP, chở theo 4 đại đội còn lại của Trung đoàn Bộ binh số 8 và các đội công binh Lục quân và Hải quân làm nhiệm vụ dọn dẹp chướng ngại vật trên bãi biển. Đợt thứ ba bắt đầu lúc 06:45, bao gồm 8 xuồng LCT chở theo xe tăng Sherman DD và các máy xúc làm nhiệm vụ dọn dẹp bãi biển. Đợt thứ tư bắt đầu lúc 06:37, gồm 8 xuồng LCM (Landing Craft Mechanized) và 3 xuồng LCVP chở theo các đơn vị của Tiểu đoàn Công binh 237 và 299 làm nhiệm vụ hỗ trợ dọn dẹp bãi biển.[26]

Các binh lính tham gia vào Chiến dịch Overlord, bao gồm Sư đoàn Bộ binh số 4 dự kiến đổ bộ lên Utah, rời doanh trại của họ vào nửa cuối tháng 5 và tập trung tại các điểm tập kết ven biển.[27] Để giữ bí mật, các đơn vị được hạn chế tiếp xúc với người bên ngoài càng ít càng tốt.[28] Các đơn vị bắt đầu lên tàu vận tải vào ngày 1 tháng 6, và 865 tàu của Lực lượng U (nhóm hải quân làm nhiệm vụ tại Bãi Utah) rời Plymouth vào ngày 3 và 4 tháng 6.

Việc hoãn cuộc xâm lược trong vòng 24 giờ do thời tiết xấu khiến nhiều đoàn vận tải phải quay đầu lại và sau đó vội vàng tiếp nhiên liệu tại Portland. Đoàn tàu vận tải U2A xuất phát từ Salcome và Dartmouth rời đi vào ngày 4 tháng 6 nhưng không nhận được thông báo rút quân, và đang hướng đến Pháp một mình. Một cuộc tìm kiếm gồm hai khu trục hạm được tổ chức nhưng không thành công, sau đó, một phi cơ trinh sát Supermarine Walrus đã xác định được vị trí của đoàn tàu vận tải và đã thả hai thông điệp được mã hóa trong hộp xuống biển; hộp mã hóa thứ hai được vớt lên khi đoàn vận tải cách Đảo Wight 30 dặm về phía nam và cách Normandie 36 dặm, sau khi đi được 150 dặm với vận tốc 6 hải lý / giờ. Đoàn tàu vận tải đó bao gồm khoảng 150 tàu và đang chuyên chở Sư đoàn Bộ binh số 4 của Thiếu tướng Raymond O. Barton.[29][30][31]

Các tàu sau đó tập trung lại tại một điểm tập kết ở phía đông nam Đảo Wight để tập hợp thành một hạm đội để vượt qua Eo biển Manche.[32] Các tàu quét mìn bắt đầu làm nhiệm vụ dọn mìn vào chiều ngày 5 tháng 6.[33]